Chuyên mục
Triết lý đạo Phật trong hành trình tìm đường cứu nước của Bác Hồ

Triết lý đạo Phật trong hành trình tìm đường cứu nước của Bác Hồ

Thứ năm 05/06/2025 05:06 GMT + 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất thế giới, Người đã dành trọn cuộc đời mình cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân và sự nghiệp cách mạng Việt Nam “Suốt đời tôi chỉ có một ham muốn đến tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Sau khi đất nước đã giành được độc lập, trong lần trả lời các nhà báo phỏng vấn về ước muốn của mình, Bác nói: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận… Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”.

Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than trong nô lệ, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã sớm chứng kiến nổi khổ nhục của đồng bào và đau cùng nổi đau của đồng bào; Nặng lòng trắc ẩn trước những cảnh ngộ thương tâm mà nhân dân ta đang phải gánh chịu, đã nung nấu trong Nguyễn Tất Thành quyết tâm, quyết chí tìm hiểu tất cả những gì là sự thật ẩn đằng sau các từ: “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái”; Với tâm nguyện lớn nhất của Người là “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”, ý chí cứu nước, cứu dân đã cháy lên ngọn lửa trong tim Người, vào trưa hè lịch sử (05/6/1911) Nguyễn Tất Thành quyết ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam; Trong hành trình thiêng liêng cao cả ấy của Người là cả một nhãn quan chính trị vượt trội và triết lý Phật giáo thấm nhuần, “Phật giáo với dân tộc như bóng với hình. Dân tộc bị nô lệ dưới chế độ thực dân thì người Phật giáo cũng bị lầm than khổ sở. Do sự liên quan mật thiết giữa Phật giáo và dân tộc Việt Nam như vậy nên khi cụ Nguyễn Ái Quốc xuất hiện đấu tranh giành quyền độc lập trên chính trường quốc tế thì cả dân tộc Việt Nam trong đó có người Phật giáo đều hướng về sự lãnh đạo của Người”.

 

Bến cảng Nhà Rồng - Nơi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (05/6/1911) - (Ảnh tư liệu lịch sử)

 

Bác Hồ là người thấm nhuần tư tưởng đạo Phật, thông hiểu về Đức Phật và giáo lý Phật giáo. Vậy nên trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người đã có những quan điểm mang tinh thần vì nước, vì dân rất sâu sắc. Ngoài truyền thống đạo Phật của quê hương xứ Nghệ, trong khoảng 10 năm ở Huế, là thời gian Bác Hồ sống trong gian không của Nho - Phật với nhiều chùa lớn, kinh luận đầy đủ, sư tăng giỏi; Bên cạnh sự ảnh hưởng của môi trường Phật giáo xứ Nghệ và xứ Huế, Người còn được ảnh hưởng nhiều tốt đẹp từ thân phụ của mình “Chính cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vốn là nhà nghiên cứu Phật học thâm sâu, một trí thức yêu nước rất thân cận với chư tôn túc Phật giáo” , “Từ thiếu thời Bác Hồ Chí Minh đã thấm nhuần lời dạy của cụ thân sinh thấm đượm màu sắc đạo Phật vào tâm trí của Người. Bác đã thấu hiểu từ những lời thơ khắc trên bia gỗ ở nhà thờ họ Nguyễn Sinh tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An: “Nhân sinh nhược đại mộng/ Thế sự như phù vân/ Uy thế bất túc thị/ Xảo hiểm đồ tự hại/ Giới chi ! Giới chi ! Nghĩa là: Đời người như giấc mộng lớn/ Việc đời tựa mây trôi/ Uy thế không đủ để chịu/ Xảo hiểm là tự hại mình/ Răn đấy ! Răn đấy !” . Còn có một yếu tố quan trọng mà Bác Hồ được thừa hưởng từ thân mẫu của mình, bà Hoàng Thị Loan từ cuộc sống lao động chân chính và được nuôi dưỡng trong gia đình gia giáo đã tạo nên những phẩm chất tốt đẹp ở Bà “Hiếu nghĩa với cha mẹ, kính nhường chồng, hết lòng nuôi dạy các con khiêm tốn lễ phép với bà con, làng xóm. Bà không bao giờ lên mặt là con cháu nhà danh vọng, không kiêu hãnh vì đẹp người, tốt nết” . Sau này, trong quá trình đi qua các nước Âu, Á, Phi, Mỹ,  Nguyễn Tất Thành không lúc nào nguôi nổi nhớ nhà, nhớ cha mẹ, anh chị. Khi ở New York, Nguyễn Tất Thành đã có bức thư đề ngày 15/12/1912 gửi Tòa Khâm Sứ Trung Kỳ nhờ chuyển tới cha mẹ với dòng chữ cảm động nhất là “một đứa con luôn muốn làm tròn nghĩa vụ đối với cha mẹ”.

 

Khi đặt chân lên cảng Mác-xây của nước Pháp, Nguyễn Tất Thành đã trực tiếp chứng kiến những cảnh sống khổ nhục của người ăn xin, những hành động hèn của kẻ ăn cắp, cảnh lao động cực khổ của công nhân, sự tàn nhẫn của giai cấp tư sản đối với người lao động,… Bằng nhãn quan chính trị giàu triết lý đạo Phật được thấm nhuần từ quê hương xứ sở, Người đã hòa mình vào đời sống của người cùng khổ để hiểu hơn cuộc sống thực của người dân lao động Pháp, để rõ hơn bản chất những luận điệu mà thực dân Pháp đã dùng để mị dân An Nam, để hiểu hơn bản chất của giai cấp tư sản và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Trong thời gian bôn ba ở nước ngoài, Bác luôn hướng về dân tộc, đứng về phía người nghèo. Khi gặp được Luận cương của Lê-nin về những vấn đề dân tộc và thuộc địa (7/1920), Người đã vô cùng cảm động và thốt lên rằng: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi mừng đến phát khóc. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hởi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Đến năm 1945, trong bản Tuyên ngôn độc lập, Bác đã nói lên được những điều mà cả nhân loại đang cần, nhân dân Việt Nam muốn có độc lập và tự do: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc… Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền độc lập và tự do ấy”.

 

Bác Hồ đã dành trọn cuộc đời mình vì dân, vì nước, luôn trăn trở trước vận mệnh của dân tộc, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, đó cũng chính là biểu hiện của tư tưởng triết lý đạo Phật đã thấm nhuần ở trong Người “Bác rất am hiểu đạo Phật và nhẹ nhàng nhắc nhở chúng ta về bản chất những tư tưởng của đạo Phật về tình cảm yêu nước gắn bó với dân tộc”. Bác đã tạm biệt gia đình, quê hương, đất nước 30 năm để đi tìm đường cứu nước, cứu dân (1911 - 1941), Người trở về trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam (28/01/1941), đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong những nguyên nhân thắng lợi vẻ vang ấy có nguyên nhân bắt nguồn từ sự thấm nhuần Phật pháp. Bởi Bác Hồ là người mà suốt cuộc đời không gợn chút riêng tư, rủ bỏ mọi ham muốn của cải vật chất đời thường, xem danh lợi là cái tạm thời, để hướng đến những giá trị của tri thức và đạo đức. Đó cũng là lời răn dạy trong Phật pháp nhằm hướng con người đến đời sống an vui. Những hàm ý và nội dung bên trong của đức tính thanh bạch, cao thượng đó đã làm nền tảng xây dựng đạo đức cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

 

Tư tưởng đạo đức của Bác Hồ là sự kế thừa tinh hoa của đạo đức Phật giáo, đó là lòng nhân ái khoan dung, chống chủ nghĩa cá nhân, tinh thần lạc quan, ứng xử bình đẳng của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh, một vĩ nhân của mọi thời đại, đã tổng kết đủ đạo đức cần có của người cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Tư tưởng này gần như tương đồng với nội dung, giá trị đạo đức mà Đức Phật khởi dạy. Còn có một điều đặc biệt hơn nữa, là mặc dù khi đã ở cương vị Chủ tịch nước nhưng Bác Hồ vẫn luôn giữ một lối sống trong sáng, giản dị, gần gũi với nhân dân; Bác luôn nghĩ đến nhân dân với một tình yêu thương bao la tựa như ông Bụt giữa đời thường “Bác sống như trời đất của ta/ Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa/ Tự do cho mỗi đời nô lệ/ Sữa để em thơ, lụa tặng già”(Tố Hữu, 1969). Với quan điểm vì con người và giải phóng con người, quan điểm dân sinh thấm đượm chủ nghĩa nhân đạo cao cả, tư tưởng nhân văn sâu sắc và triết lý Phật giáo trong nhân sinh quan Hồ Chí Minh, Người từng viết: “Tôn chỉ mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui và no ấm”, “Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn. Người phải hy sinh tranh đấu diệt lũ ác ma”.


Trong thời gian hoạt động cách mạng ở nước ngoài, đã có thời điểm Bác Hồ làm tu sĩ Phật giáo “Khi hoạt động bí mật ở Thái Lan, Bác sống cuộc sống giản dị và kham khổ như nhà tu hành. Bác đã nghiên cứu giáo lý đạo Phật và am hiểu cả kiến trúc chùa tháp. Trên chặng đường muôn dặm tìm chân lý đích thực để giải phóng dân tộc, Người đã được nghe, được học trực tiếp hoặc gián tiếp ở các bậc chân sư về đức vô ngã vị tha, về sự cao diệu của tâm. Giáo lý đạo Phật đã giúp Người hoàn toàn thế nhập được tự do, bình đẳng, bác ái để trở về với triết lý của nhân sinh Đức Phật, đó là: Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn, tình thương là sợi dây nối người với người”. Chính chân lý đạo Phật đã giúp Nguyễn Ái Quốc vượt qua cái tự ngã, không chỉ là tình thương cho dân tộc mà rộng hơn là tình thương cho toàn nhân loại. Chắc rằng trên cái nền tảng triết lý Phật giáo, Người đã đến với nhân sinh quan cách mạng và chủ nghĩa cộng sản, hướng tới mục tiêu đưa những người nô lệ thoát khỏi xiềng xích để đến với bến bờ Tự do - Hạnh phúc. Tự do - bình đẳng - bác ái để nhân dân không lầm than với cuộc đời nô lệ, mọi người sống chan hoà, tương thân, tương ái. Như vậy, ta thấy trong hành trình cứu nước, Bác Hồ đã trang bị cho mình đầy đủ tín hạnh nguyện. 


Trong hành trình cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, triết lý Phật giáo có sự kế thừa, tiếp nối chủ nghĩa nhân đạo, lấy quan điểm dân sinh, triết lý dân sinh làm kim chỉ nam: Suốt đời cống hiến hết mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng giai cấp và giải phóng nhân loại; đấu tranh không mệt mỏi để xoá bỏ áp bức, bóc lột, bất công; dành độc lập, tự do cho Tổ quốc, vì quyền được bình đẳng phát triển của dân tộc; đem lại cho nhân dân cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Triết lý bi - trí - dũng của nhà Phật đã định hình nên nhân cách, nhân bản Hồ Chí Minh. Tinh thần này đã thấm nhuần trong nhân sinh quan của Bác, luôn toả sáng trong suốt cuộc đời Người “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Trong buổi tiếp phái đoàn Phật giáo vào thăm tại Phủ Chủ tịch (03/01/1957), Bác đã nói rằng: “Tôi cũng học Phật và nhớ được một câu “mình không vào địa ngục cứu chúng sinh thì ai vào”. Và thực tế trong hành trình 30 năm đi tìm đường cứu nước, cứu dân của Nguyễn Ái Quốc cũng tựa như Người đã vào địa ngục trần gian thực hành hạnh Bồ Tát. 

 

Ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của mình  vượt qua cột mốc 108 biên giới Việt Nam - Trung Quốc về đến Pác Bó (Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng) 

(Ảnh: TTXVN)

 

Triết lý Phật giáo ở Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện nhất quán từ lời nói đến việc làm; từ thuở tham gia chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908, đến những năm tháng đi tìm đường cứu nước, cứu dân và đến khi Người đã là Chủ tịch nước. Đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc, Người đã kêu gọi đồng bào lập “Hũ gạo cứu đói” với tinh thần “cứu khổ cứu nạn” và Bác là người đã thực hiện đầu tiên bằng cách: Mỗi ngày Bác nhịn ăn một bữa và mỗi bữa Bác bớt ăn một bát cơm; với khẩu hiệu “Một nắm khi đói bằng một gói khi no” và cứ thế Bác làm gương cho đồng bào noi theo cho đến khi nạn đói được đẩy lùi; Tất cả những điều này vốn được xuất phát từ triết lý nhà Phật. Bác Hồ luôn theo phương châm tự giác, giác tha của đạo Phật, đó là phép biện chứng xuyên suốt trong suốt mọi hành động cách mạng của Người. Với tinh thần lục hoà, Bác đã nêu cao khẩu hiệu “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Tinh thần hoà hợp của Hồ Chí Minh luôn thắm đượm tình đoàn kết, hoà bình, hữu nghị trong mọi chính sách đối nội, đối ngoại. Người luôn chủ trương hoà bình trên cơ sở lục hoà để giữ được sự đoàn kết vững chắc. Vì vậy, trong hành trình tìm đường cứu nước cũng như suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ, triết lý Phật giáo luôn được Người vận dụng một cách nhuần nhuyễn và hiệu quả. Triết lý đạo Phật đã góp phần hình thành nên nhân sinh quan Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam, một nhân cách vĩ đại của mọi thời đại ./.

 

Phạm Thị Kim Loan

Nguồn: CTV
2 bạn đọc
Đánh giá tốt
Chuyên mục liên quan

X
Bình luận của bạn:

СМИ сетевое издание «Baonga.com» зарегистрировано в Федеральной службе по надзору в сфере связи, информационных технологий и массовых коммуникаций. Регистрационный номер средства массовой информации Эл № ФС77-73891 от 29 октября 2018 г. Учредитель Ха Вьет Лонг, номер телефона: +7(905) 238 89 99. Главный редактор: Чан Тхи Тху Ха: Адрес электронной почты: info@baonga.com; Номер телефона: +7(960) 222 19 99. Настоящий ресурс содержит материалы 16+. Использование информации с данного веб-сайта возможно исключительно на следующих условиях: В конце текста необходимо указывать ссылку на сайт https://baonga.com. Текст должен копироваться в первоначальном виде. Не допускается удаление ссылки на данный веб-сайт из текстов материалов. Реклама: Rus +7(926) 282 29 86 (Viber, Whatsapp, Zalo); Вьетнам +84.979.137.386.